Sunday, March 28, 2010

Saturday, March 27, 2010

HỆ SINH THÁI TRONG AO NUÔI TÔM

Bài viết về HỆ SINH THÁI TRONG AO NUÔI TÔM (MICROBIAL ECOSYSTEM IN SHRIMP POND) của MR.AEKAPAN RATCHATASETTAKUL


Thursday, March 25, 2010

THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA NƯỚC TỰ NHIÊN

Các hợp chất vô cơ trong nước tự nhiên có thể tồn tại ở dạng ion hòa tan, khí hòa tan hoặc rắn hoặc lỏng. Chính sự phân bố của các hợp chất này quyết định bản chất của nước tự nhiên: nước ngọt, nước lợ hay nước mặn; giàu dinh dưỡng hay nghèo dinh dưỡng; nước cứng hoặc nước mềm; nước bị ô nhiễm nặng hay nhẹ...

Chúng ta có gặp trong nước thiên nhiên hầu hết các nguyên tố có trong vỏ trái đất và trong khí quyển, song chỉ có một số nguyên tố có số lượng đáng kể, nhiều nguyên tố này ta gọi là thành phần chính của nước thiên nhiên (nguyên tố đa lượng). Những nguyên tố là thành phần chính của nước thiên nhiên là: H, O, N, C, Na, Ca, Mg, I, Cl, S, K, Fe, Mn, Br, Si, P. Ngoài ra, còn có nhiều nguyên tố khác với số lượng ít hơn (nguyên tố vi lượng): Al, Zn, Cu, Mo, Co, B, F,… Nước tự nhiên là dung môi tốt để tan hầu hết các acid, baz và muối vô cơ.

- Các hợp chất hữu cơ hòa tan như: đường, acid béo, amino acid, acid humic, tanin, vitamine, peptid, protein, urea, sắc tố thực vật và vài hợp chất sinh hóa khác…
- Các chất vẩn hữu cơ như: keo hay các sản phẩm phân hủy của các hợp chất hữu cơ, động vật phù du, vi sinh vật…
- Các chất vẩn vô cơ như: keo sét hay các hạt sét thô.

Ta nhận thấy rằng tổng nồng độ các ion hòa tan trong nước cao hơn so với trong nước sông. Sự hòa tan các chất rắn (ion) trong nước chính là yếu tố quyết định độ mặn của nguồn nước. Nồng độ các ion hòa tan càng cao độ dẫn điện (EC) của nước càng cao. Độ mặn được định nghĩa là tổng chất rắn hòa tan (TDS) trong nước. Do vậy độ mặn có thể được xác định qua độ dẫn điện. Độ dẫn điện (EC) được đo bằng đơn vị micro Siemen/cm (S/cm).

Bảng. Thành phần các phần tử hòa tan trong nước biển và nước sông trên thế giới

Wednesday, March 24, 2010

NUÔI TÔM SÚ BẰNG PHƯƠNG PHÁP ÍT THAY NƯỚC

Nghề nuôi tôm ở Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Định nói riêng đã có từ lâu đời nhưng chủ yếu nuôi theo phương thức quảng canh truyền thống, quảng canh cải tiến, bán thâm canh theo phương pháp nuôi thay nước trực tiếp nên năng suất đạt thấp. Vì vậy để nâng cao năng suất nuôi tôm ở Bình Định, vấn đề đặt ra là phải tìm được và ứng dụng được kỹ thuật nuôi tôm sú ít thay nước cho các vùng trong tỉnh kể cả những vùng có điều kiện tự nhiên khó khăn nhằm nâng cao năng suất nuôi, hạn chế dịch bệnh, tạo bước đột phá cho ngành nuôi tôm tỉnh nhà. 

* MÔ TẢ GIẢI PHÁP:
Nuôi tôm sú bằng phương pháp ít thay nước hệ thống ao gồm khu ao chứa và khu ao nuôi. Ao chứa thường < 30% tổng diện tích, dùng cho khâu xử lý nước nhằm chủ động cung cấp và cải thiện chất lượng nước cấp cho ao nuôi.

Giải pháp bố trí ao nuôi thực nghiệm tại các vùng sinh thái đặc trưng tại các huyện. Từ cơ sở kỹ thuật nuôi tôm sú theo phương pháp ít thay nước của Bộ Thủy sản, đề tài đã sáng tạo cải tiến một số khâu kỹ thuật phù hợp với điều kiện thực tế của từng vùng nuôi thực nghiệm. Tại Hoài Mỹ (Hoài Nhơn), sử dụng giếng đóng để lấy nguồn nước ngầm có độ mặn cao bổ sung cho ao nuôi. Tuy nhiên, nước mặn có độ pH thấp = 6,0-6,5. Có thể khắc phục bằng gây màu tảo cho ao nuôi đạt độ trong 40cm, pH nâng lên 7,5 đảm bảo yêu cầu. Tại Phước Thắng (Tuy Phước), độ mặn môi trường tự nhiên thấp (0-10‰) lại không có nguồn nước mặn ngầm để cấp cho ao nuôi. Độ mặn từ môi trường bên ngoài thường xuyên thấp, không thể thay cho ao nuôi. Giải pháp là không thay nước từ ao nuôi mà chỉ cấp thêm nước. Toàn bộ vụ nuôi chỉ cấp nước từ 4-7 lần, mỗi lần 5-20 cm. Quản lý môi trường ổn định bằng một số loài men vi sinh và hóa chất. Tại Mỹ Thành (Phù Mỹ), thực hiện trong hai vụ. Vụ một, độ mặn từ 2-3%o; vụ 2, nhiệt độ và độ mặn biến thiên từ 18-340 C, 5-43%o nằm trong ngưỡng thích hợp cho tôm phát triển trong khi môi trường bên ngoài không thuận lợi cho việc thay nước. Giải pháp là giữ mực nước trong ao >1m, bón phân gây màu nước, sử dụng một số men vi sinh và hóa chất ổn định môi trường.

Phương pháp cũ lấy nước trực tiếp theo thủy triều, người nuôi dùng toàn bộ diện tích mặt nước ao để nuôi, chất lượng khó kiểm soát và kém chủ động. Kỹ thuật nuôi bằng phương pháp ít thay nước do Bộ Thủy sản hướng dẫn có yêu cầu cao, khó áp dụng vào các vùng mà điều kiện tự nhiên khó khăn. Giải pháp đã ứng dụng được kỹ thuật này vào các vùng trong tỉnh.

* HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI:
- Năng suất nuôi tôm tăng 5-7 lần so với phương pháp nuôi cũ, lợi nhuận tăng 5-10 lần. Từ 18 đến 158 ngày nuôi, năng suất đạt từ 1.857-3.363kg tôm/ha, lợi nhuận từ 59,23 đến 244,49 triệu đồng/ha/vụ.
- Mở ra khả năng nuôi tôm cho những vùng, mùa vụ với những điều kiện không thuận lợi.
- Ưu điểm của phương pháp nuôi tôm ít thay nước là môi trường nuôi ổn định, hạn chế sốc cho tôm, ít bệnh vì nước ao nuôi đã được xử lý, tôm phát triển tốt, cho năng suất cao, mức độ rủi ro thấp. Điều đáng quan tâm là hạn chế được chất thải từ ao nuôi đưa ra môi trường. Lượng nước thải chỉ bằng
1/15-1/20 phương pháp cũ.
- Làm thay đổi tư tưởng cho rằng Bình Định không thể nuôi tôm năng suất cao, mở ra hướng phát triển nghề tôm tỉnh nhà theo hướng thâm canh-công nghiệp-bền vững, tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho các hộ nuôi tôm, giải quyết được tình trạng bế tắc trong sản xuất nuôi tôm của nhiều vùng.

Tác giả: Trần Văn Lang